Tác phẩm được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2013, hiện được trưng bày tại phòng 10, chuyên đề tranh sơn dầu, tầng hai Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Tranh cùng các hiện vật được đặt trong không gian có nhiệt độ duy trì từ 20 đến 25 độ C, độ ẩm 50 đến 55 %, 24/24. Bảo tàng sử dụng các thiết bị ánh sáng theo tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ trưng bày.
Tranh "Em Thúy" tại bảo tàng, chất liệu sơn dầu, kích thước 60x45 cm. Ảnh: Hiểu Nhân
Năm 2003, nhiều bức họa trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam xuống cấp nghiêm trọng do thời gian và điều kiện bảo quản. Em Thúy - ra đời năm 1943 - được chọn là tác phẩm mở đầu cho việc phục chế. Khi đó, mặt tranh bẩn do bụi, muội thuốc lá, phân côn trùng. Toan bị hư hỏng, dễ rách. Tranh chùng xuống, lớp sơn dầu nứt nhiều, có chỗ bong tróc do điều kiện môi trường nóng ẩm làm biến đổi lớp toan, phá vỡ tính liên kết mặt sơn. Năm 2004, Caroline Fry - chuyên gia của Trung tâm phục chế vật phẩm văn hóa Đại học tổng hợp Melbourne, Australia - được mời đến Việt Nam khôi phục tranh.
Quá trình phục chế diễn ra tại phòng Thí nghiệm bảo quản của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, gồm bảy bước theo đúng quy định, tiêu chuẩn quốc tế.
Đầu tiên, chuyên gia lập hồ sơ về hiện trạng tranh, chụp ảnh. Bước hai là ổn định tranh, củng cố trước khi vệ sinh bằng cách sử dụng dao nóng làm phẳng những vết tróc sơn, sau đó bảo vệ bằng một lớp giấy chống dính phủ silicon.
Bước ba là làm ẩm bằng men tự nhiên, dùng dao cạo bỏ các vết bẩn bám chắc, loại bỏ các lớp sơn bóng bằng hóa chất. Trong đó, chuyên gia dùng tăm bông lăn nhẹ trên bề mặt để lau sạch bụi bẩn, sử dụng dung dịch Triammonium citrate và nước Deion để vệ sinh lần cuối. Những vết bẩn "cứng đầu" được xử lý bằng dao chuyên dụng.
Chuyên gia phát hiện một lớp vecni đục màu bên dưới bề mặt các vết bẩn - nghi tranh từng phục chế trước đó. Vì vậy, họ phải loại bỏ lớp sơn này bằng hóa chất. Sau đó quét dung dịch Paraloid B72 lên bề mặt để bảo vệ lớp sơn ban đầu của họa sĩ. Mặt sau tranh được dùng chổi lông để phủi bụi.
Bước bốn là xử lý vết bong sơn, quét lớp sơn bảo quản, bù đắp phần sơn bị mất, sơn lại bằng màu nước và sơn bảo quản chuyên dụng. Gương mặt em Thúy - linh hồn của bức tranh - có nhiều vết tróc sơn, hư hỏng khá nặng. Những vết hở nhỏ được trám bằng thạch cao. Sau đó, chuyên gia sơn lại các chỗ hở bằng kỹ thuật sơn ảo. Lớp đầu tiên được vẽ bằng màu nước giúp dễ dàng loại bỏ về sau. Sau đó phủ bằng sơn nhựa tổng hợp, có tính ổn định cao. Lớp phủ cuối cùng có màu, độ bóng và kết cấu giống hệt bản gốc. Kỹ thuật này giúp đánh lừa thị giác người xem, trông giống tranh sơn dầu.
Bước năm là làm khung mới. Sau khi xử lý được những lớp màu hư hỏng, phủi bụi theo thời gian, chuyên gia vá những vết rách trên tranh bằng miếng dán nhựa. Sau đó, sửa chữa, gia cố lại khung tranh, đặc biệt là các mối nối ở góc sao cho ổn định nhất. Tác phẩm cũng được lồng trong khung kính mới. Hai bước cuối cùng là chụp ảnh và làm báo cáo. Toàn bộ quá trình, chuyên gia mất bốn tháng để hoàn thành.
Tác phẩm được bàn giao cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ngày 28/6/2004. Tại sự kiện, bà Caroline Fry nói: "Em Thúy đã khỏe khoắn nhiều, cứng cáp hơn và có thể tuyên chiến với môi trường trong khoảng 20 năm nữa trước khi tiếp tục được phục chế".
Hiện tại, việc kiểm tra, giám sát hiện vật được thực hiện thường xuyên. Nếu phát hiện vấn đề, cán bộ sẽ báo cáo trung tâm tu sửa, phục chế để có phương án xử lý.
Tranh "Em Thúy" sau khi phục chế. Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt NamEm Thúy là kiệt tác nghệ thuật, một trong những tranh chân dung xuất sắc của hội họa hiện đại nước nhà. Tác phẩm vẽ bán thân một nhân vật có thật - bé Thúy, tám tuổi - với đôi mắt đen to tròn, đôi môi chúm chím, hai má bầu bĩnh, mái tóc rẽ lệch ngôi, đang nhìn thẳng vào người đối diện. Cô bé ngồi lệch sang trái tranh, hai tay nắm lại để trên đùi, túm tóc đã vén ra sau tai còn vương lại, chạm vào cổ áo. Chiếc ghế mây màu nâu với những đường cong tạo thế cân bằng cho bố cục tranh. Bộ quần áo sáng màu hài hòa với bức tường vàng nhạt phía sau, chiếc ri-đô hoa điểm những vệt đỏ hồng tươi, trắng phớt.
Theo Hồ sơ di sản của Cục Di sản văn hóa, Trần Văn Cẩn sử dụng bố cục điển hình phong cách châu Âu đầu thế kỷ 20. Tác phẩm được công nhận bảo vật quốc gia vì là độc bản và được các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá cao. Tranh mang phong cách riêng biệt của Trần Văn Cẩn, kế thừa tạo hình phương Tây, hòa quyện tinh thần phương Đông. Với chất liệu sơn dầu, tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật tả thực, cũng như thể loại tranh chân dung Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ 20. Thông qua Em Thúy, tác phẩm góp phần phản ánh hình ảnh xã hội Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám năm 1945.
Nhân vật trong tranh là Minh Thúy - cháu gái họa sĩ Trần Văn Cẩn. Một ngày năm 1943, khi thấy cháu gái mặc áo lụa Hà Đông màu phớt hồng, ông đề nghị ngồi làm mẫu để vẽ. Khi ấy, Minh Thúy tám tuổi, đang học trường nữ sinh tiểu học École Brieux ở Hàng Cót. Họa sĩ mất vài tháng để hoàn thành. Tác phẩm lần đầu được giới thiệu tại triển lãm FARTA (Hội nghệ thuật An Nam) ở Hà Nội năm 1943. Tranh sau đó giúp Trần Văn Cẩn đoạt giải nhất tại triển lãm của Hội Khai Trí Tiến Đức (AFIMA), cùng tác phẩm Gội đầu.
Sau này do chiến tranh, gia đình đi sơ tán nên tác phẩm bị thất lạc. Năm 1964, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mua lại tranh từ gia đình nhiếp ảnh gia Đỗ Huân với giá 300 đồng. Khi đó, lương công chức mới ra trường chỉ có 64 đồng một tháng. Tranh khi đó bị bong, lốm đốm tróc sơn và phải đặt trong chế độ bảo quản đặc biệt. Em Thúy ngoài đời nay đã 87 tuổi, sống cùng con cháu tại Thanh Xuân Bắc. Bà bị đãng trí và nhiều bệnh tuổi già, không còn nhớ về năm tám tuổi, ngồi trên ghế làm mẫu cho bác.
Chuyên gia Caroline Fry từng cho biết choáng ngợp trước vẻ đẹp của bức tranh khi lần đầu được chiêm ngưỡng. "Dù ở tình trạng không tốt, tác phẩm vẫn toát lên sự cuốn hút và không quá khi gọi là Mona Lisa của Việt Nam", bà nói. Nhạc sĩ người Anh Paul Zetter sáng tác bài Little Thúy Minuet sau khi nhìn thấy tác phẩm. Ông cho biết bị "sét đánh", mê hoặc bởi "như nhìn thấy tuổi thơ của mình, thấy những xáo động nội tâm đến rơi nước mắt bởi sự mộc mạc, giản dị tuyệt đối của bức tranh".
Trần Văn Cẩn (1910-1994) quê Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông tốt nghiệp thủ khoa khóa bảy (1931-1936) của Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, là một trong bộ tứ danh họa Trí - Vân - Lân - Cẩn (Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn). Họa sĩ từng được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996, huân chương độc lập hạng nhất và nhiều giải thưởng chuyên môn.
vnexpress.net